Bạch biến là gì? Các công bố khoa học về Bạch biến
"Bạch biến" là một thuật ngữ trong lĩnh vực cung cấp điện và điện tử, được sử dụng để chỉ một dạng biến áp có chức năng chuyển đổi điện áp hoặc dòng điện một cá...
"Bạch biến" là một thuật ngữ trong lĩnh vực cung cấp điện và điện tử, được sử dụng để chỉ một dạng biến áp có chức năng chuyển đổi điện áp hoặc dòng điện một cách tự động. Bạch biến thông thường được sử dụng để tăng hoặc giảm điện áp, tạo điều kiện cho việc cung cấp điện cho các thiết bị hoặc hệ thống với điện áp đúng và an toàn. Bạch biến cũng có thể được sử dụng để cân bằng tải trong hệ thống điện.
Bạch biến (còn được gọi là biến áp tự ngẫu hoặc biến áp tự nguyên) là một thiết bị điện tử được sử dụng để biến đổi điện áp hoặc dòng điện từ một mức vào sang một mức ra khác mà không có sự can thiệp của hệ thống điều khiển ngoại vi.
Cấu trúc của bạch biến gồm một cuộn dây đầu vào và một cuộn dây đầu ra. Điện áp và dòng điện trên cuộn dây đầu vào sẽ được biến đổi thành mức đúng trên cuộn dây đầu ra dựa trên tỷ lệ số vòng lệnh giữa hai cuộn dây. Thông thường, cuộn dây vào được gọi là cuộn dây nguồn (primary) và cuộn dây ra được gọi là cuộn dây tải (secondary).
Bạch biến có thể được sử dụng để tăng hoặc giảm điện áp. Khi sử dụng để tăng điện áp, đầu vào được kết nối với cuộn dây có số vòng lệnh ít hơn, trong khi đầu ra được kết nối với cuộn dây có số vòng lệnh nhiều hơn. Khi sử dụng để giảm điện áp, ngược lại, cuộn dây đầu vào được kết nối với cuộn dây có số vòng lệnh nhiều hơn, trong khi cuộn dây đầu ra được kết nối với cuộn dây có số vòng lệnh ít hơn.
Bạch biến cũng có thể được sử dụng để cân bằng tải trong hệ thống điện. Khi một công suất lớn được chia thành các nhóm nhỏ hơn, việc sử dụng bạch biến có thể giúp cân đối tải trên từng nhóm và tránh quá tải.
Các ứng dụng phổ biến của bạch biến bao gồm trong hệ thống cung cấp điện, hệ thống điện tử, máy móc công nghiệp, các thiết bị trong ngành y tế và nhiều lĩnh vực khác. Bạch biến đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp điện an toàn và ổn định cho các thiết bị và hệ thống, đảm bảo chất lượng và đáp ứng yêu cầu về điện áp và dòng điện của từng ứng dụng cụ thể.
Bạch biến có thể được chia thành hai loại chính: bạch biến xung (chopper transformer) và bạch biến liên tục (continuous transformer).
1. Bạch biến xung: Bạch biến xung là loại bạch biến sử dụng các chuyển đổi ngắn và ngắn hạt nhằm tạo ra một dạng sóng xung (pulse waveform) hoặc xung gián đoạn (intermittent pulse). Loại bạch biến này thường được sử dụng để tạo ra một dạng sóng xung đặc biệt để điều chỉnh điện áp hoặc dòng điện cho mục đích nghiên cứu và thử nghiệm. Dạng sóng xung có thể có biên độ cao hơn hoặc thấp hơn so với dạng sóng liên tục thông thường, và thường được sử dụng trong các ứng dụng như điều chỉnh tốc độ động cơ, nguồn cấp cho hệ thống năng lượng mặt trời, nguồn xung cho mạng truyền thông, v.v.
2. Bạch biến liên tục: Bạch biến liên tục là loại bạch biến thông thường nhất và được sử dụng rộng rãi trong nhiều ứng dụng. Loại bạch biến này có thể biến đổi điện áp hoặc dòng điện một cách liên tục, từ mức thấp đến mức cao hay ngược lại. Bạch biến liên tục thông thường có cuộn dây đầu vào và cuộn dây đầu ra được kết nối liên tục, giúp cung cấp điện áp hoặc dòng điện ổn định cho các thiết bị hoặc hệ thống.
Bạch biến có thể có các thông số kỹ thuật khác nhau như số vòng lệnh, tỷ lệ biến áp, công suất, tần số làm việc, v.v. Các yếu tố này sẽ phụ thuộc vào ứng dụng cụ thể và yêu cầu kỹ thuật. Bạch biến có thể được thiết kế để hoạt động ở tần số AC (thường là 50Hz hoặc 60Hz) hoặc tần số DC. Các loại bạch biến như bạch biến đơn (single-phase transformer) và bạch biến ba pha (three-phase transformer) cũng được sử dụng phổ biến.
Trong lĩnh vực cung cấp điện, bạch biến chơi một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo điện áp và dòng điện ổn định, giúp bảo vệ thiết bị điện tử và máy móc hoạt động một cách an toàn và ổn định. Ngoài ra, bạch biến cũng có thể được sử dụng để cân bằng tải trong mạng điện, giảm tổn thất điện năng và tăng hiệu suất hệ thống điện.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bạch biến":
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của cấy ghép dị chủng với điều kiện cường độ giảm (RIC) ở 30 bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu lympho mãn tính (CLL) tiên lượng xấu và/hoặc các đặc điểm phân tử/cytogenetic có nguy cơ cao.
Thiết kế Nghiên cứu: 83% bệnh nhân có bệnh chủ động tại thời điểm cấy ghép, cụ thể là 14 trong số 23 bệnh nhân được phân tích (60%) có trạng thái gen chuỗi nặng biến đổi kháng thể không được chuyển đổi (IgVH); 8 trong số 25 bệnh nhân (32%) có 11q−, với bốn trong số họ cũng hiển thị IgVH không được chuyển đổi; và sáu (24%) có 17p− (năm cũng không được chuyển đổi).
Kết quả: Sau khi theo dõi trung bình 47,3 tháng, tất cả 22 bệnh nhân còn sống đều không mắc bệnh; tỷ lệ sống sót toàn bộ và không biến cố (EFS) trong 6 năm là 70% và 72%, đánh giá ngược lại. Theo đặc điểm phân tử/cytogenetic, tỷ lệ sống sót và EFS cho CLL không được chuyển đổi và/hoặc với bất thường 11q− (n = 13) là 90% và 92%, không khác biệt đáng kể so với những người có thể kết hợp bình thường tại chỗ, 13q− và +12, hoặc thêm CLL (n = 7). Tất cả sáu bệnh nhân bị mất đoạn 17p đã được cấy ghép với bệnh hoạt động, bao gồm ba người với bệnh kháng. Tất cả trừ một trong số họ đã đạt được hoàn toàn lui bệnh sau khi cấy ghép và hai trong đó còn sống và không mắc bệnh. Tỷ lệ tử vong không do tái phát (NRM) là 20%; hơn hai dòng trước khi cấy ghép là một yếu tố tiên lượng độc lập cho NRM (P = 0,02), EFS (P = 0.02), và tỷ lệ sống sót toàn bộ (P = 0.01). Bệnh nhân trên 55 tuổi có nguy cơ NRM cao hơn (tỷ số nguy cơ, 12.8; khoảng tin cậy 95%, 1.5-111). Bệnh tồn dư tối thiểu được theo dõi bằng phương pháp dòng chảy đa tham số trong 21 bệnh nhân. Loại bỏ tế bào CD79/CD5/CD19/CD23 trong tủy xương đạt được tại 68% và 94% bệnh nhân vào ngày 100 và ngày 360, tương ứng.
Kết luận: Theo kết quả này, cấy ghép dị chủng với RIC có thể khắc phục tiên lượng bất lợi của bệnh nhân với CLL không được chuyển đổi cũng như những người có 11q− hoặc 17p−.
RS‐4‐(4‐hydroxyphenyl)‐2‐butanol dạng racemic (rhododendrol; tên thương mại: Rhododenol [RD]), được sử dụng trong mỹ phẩm làm trắng da, đã gây bất ngờ ở Nhật Bản khi báo cáo gây ra bạch biến hoặc bệnh bạch tạng gọi là bạch biến do rhododendrol (RIL) sau khi sử dụng nhiều lần. Theo hiểu biết của chúng tôi, chưa có nghiên cứu nào điều tra cơ chế gây bệnh bạch biến do hóa chất trên quy mô toàn bộ bộ gen. Tại đây, chúng tôi thực hiện một nghiên cứu liên kết toàn bộ bộ gen (GWAS) trên 147 trường hợp và 112 đối chứng.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 9