Bạch biến là gì? Các công bố khoa học về Bạch biến

"Bạch biến" là một thuật ngữ trong lĩnh vực cung cấp điện và điện tử, được sử dụng để chỉ một dạng biến áp có chức năng chuyển đổi điện áp hoặc dòng điện một cá...

"Bạch biến" là một thuật ngữ trong lĩnh vực cung cấp điện và điện tử, được sử dụng để chỉ một dạng biến áp có chức năng chuyển đổi điện áp hoặc dòng điện một cách tự động. Bạch biến thông thường được sử dụng để tăng hoặc giảm điện áp, tạo điều kiện cho việc cung cấp điện cho các thiết bị hoặc hệ thống với điện áp đúng và an toàn. Bạch biến cũng có thể được sử dụng để cân bằng tải trong hệ thống điện.
Bạch biến (còn được gọi là biến áp tự ngẫu hoặc biến áp tự nguyên) là một thiết bị điện tử được sử dụng để biến đổi điện áp hoặc dòng điện từ một mức vào sang một mức ra khác mà không có sự can thiệp của hệ thống điều khiển ngoại vi.

Cấu trúc của bạch biến gồm một cuộn dây đầu vào và một cuộn dây đầu ra. Điện áp và dòng điện trên cuộn dây đầu vào sẽ được biến đổi thành mức đúng trên cuộn dây đầu ra dựa trên tỷ lệ số vòng lệnh giữa hai cuộn dây. Thông thường, cuộn dây vào được gọi là cuộn dây nguồn (primary) và cuộn dây ra được gọi là cuộn dây tải (secondary).

Bạch biến có thể được sử dụng để tăng hoặc giảm điện áp. Khi sử dụng để tăng điện áp, đầu vào được kết nối với cuộn dây có số vòng lệnh ít hơn, trong khi đầu ra được kết nối với cuộn dây có số vòng lệnh nhiều hơn. Khi sử dụng để giảm điện áp, ngược lại, cuộn dây đầu vào được kết nối với cuộn dây có số vòng lệnh nhiều hơn, trong khi cuộn dây đầu ra được kết nối với cuộn dây có số vòng lệnh ít hơn.

Bạch biến cũng có thể được sử dụng để cân bằng tải trong hệ thống điện. Khi một công suất lớn được chia thành các nhóm nhỏ hơn, việc sử dụng bạch biến có thể giúp cân đối tải trên từng nhóm và tránh quá tải.

Các ứng dụng phổ biến của bạch biến bao gồm trong hệ thống cung cấp điện, hệ thống điện tử, máy móc công nghiệp, các thiết bị trong ngành y tế và nhiều lĩnh vực khác. Bạch biến đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp điện an toàn và ổn định cho các thiết bị và hệ thống, đảm bảo chất lượng và đáp ứng yêu cầu về điện áp và dòng điện của từng ứng dụng cụ thể.
Bạch biến có thể được chia thành hai loại chính: bạch biến xung (chopper transformer) và bạch biến liên tục (continuous transformer).

1. Bạch biến xung: Bạch biến xung là loại bạch biến sử dụng các chuyển đổi ngắn và ngắn hạt nhằm tạo ra một dạng sóng xung (pulse waveform) hoặc xung gián đoạn (intermittent pulse). Loại bạch biến này thường được sử dụng để tạo ra một dạng sóng xung đặc biệt để điều chỉnh điện áp hoặc dòng điện cho mục đích nghiên cứu và thử nghiệm. Dạng sóng xung có thể có biên độ cao hơn hoặc thấp hơn so với dạng sóng liên tục thông thường, và thường được sử dụng trong các ứng dụng như điều chỉnh tốc độ động cơ, nguồn cấp cho hệ thống năng lượng mặt trời, nguồn xung cho mạng truyền thông, v.v.

2. Bạch biến liên tục: Bạch biến liên tục là loại bạch biến thông thường nhất và được sử dụng rộng rãi trong nhiều ứng dụng. Loại bạch biến này có thể biến đổi điện áp hoặc dòng điện một cách liên tục, từ mức thấp đến mức cao hay ngược lại. Bạch biến liên tục thông thường có cuộn dây đầu vào và cuộn dây đầu ra được kết nối liên tục, giúp cung cấp điện áp hoặc dòng điện ổn định cho các thiết bị hoặc hệ thống.

Bạch biến có thể có các thông số kỹ thuật khác nhau như số vòng lệnh, tỷ lệ biến áp, công suất, tần số làm việc, v.v. Các yếu tố này sẽ phụ thuộc vào ứng dụng cụ thể và yêu cầu kỹ thuật. Bạch biến có thể được thiết kế để hoạt động ở tần số AC (thường là 50Hz hoặc 60Hz) hoặc tần số DC. Các loại bạch biến như bạch biến đơn (single-phase transformer) và bạch biến ba pha (three-phase transformer) cũng được sử dụng phổ biến.

Trong lĩnh vực cung cấp điện, bạch biến chơi một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo điện áp và dòng điện ổn định, giúp bảo vệ thiết bị điện tử và máy móc hoạt động một cách an toàn và ổn định. Ngoài ra, bạch biến cũng có thể được sử dụng để cân bằng tải trong mạng điện, giảm tổn thất điện năng và tăng hiệu suất hệ thống điện.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bạch biến":

Cấy ghép dị chủng với chế độ điều kiện cường độ giảm có thể khắc phục tiên lượng xấu của bệnh bạch cầu lympho mãn tính tế bào B với gen chuỗi nặng biến đổi kháng thể không được chuyển đổi và các bất thường nhiễm sắc thể (11q− và 17p−) Dịch bởi AI
Clinical Cancer Research - Tập 11 Số 21 - Trang 7757-7763 - 2005
Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của cấy ghép dị chủng với điều kiện cường độ giảm (RIC) ở 30 bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu lympho mãn tính (CLL) tiên lượng xấu và/hoặc các đặc điểm phân tử/cytogenetic có nguy cơ cao.

Thiết kế Nghiên cứu: 83% bệnh nhân có bệnh chủ động tại thời điểm cấy ghép, cụ thể là 14 trong số 23 bệnh nhân được phân tích (60%) có trạng thái gen chuỗi nặng biến đổi kháng thể không được chuyển đổi (IgVH); 8 trong số 25 bệnh nhân (32%) có 11q−, với bốn trong số họ cũng hiển thị IgVH không được chuyển đổi; và sáu (24%) có 17p− (năm cũng không được chuyển đổi).

Kết quả: Sau khi theo dõi trung bình 47,3 tháng, tất cả 22 bệnh nhân còn sống đều không mắc bệnh; tỷ lệ sống sót toàn bộ và không biến cố (EFS) trong 6 năm là 70% và 72%, đánh giá ngược lại. Theo đặc điểm phân tử/cytogenetic, tỷ lệ sống sót và EFS cho CLL không được chuyển đổi và/hoặc với bất thường 11q− (n = 13) là 90% và 92%, không khác biệt đáng kể so với những người có thể kết hợp bình thường tại chỗ, 13q− và +12, hoặc thêm CLL (n = 7). Tất cả sáu bệnh nhân bị mất đoạn 17p đã được cấy ghép với bệnh hoạt động, bao gồm ba người với bệnh kháng. Tất cả trừ một trong số họ đã đạt được hoàn toàn lui bệnh sau khi cấy ghép và hai trong đó còn sống và không mắc bệnh. Tỷ lệ tử vong không do tái phát (NRM) là 20%; hơn hai dòng trước khi cấy ghép là một yếu tố tiên lượng độc lập cho NRM (P = 0,02), EFS (P = 0.02), và tỷ lệ sống sót toàn bộ (P = 0.01). Bệnh nhân trên 55 tuổi có nguy cơ NRM cao hơn (tỷ số nguy cơ, 12.8; khoảng tin cậy 95%, 1.5-111). Bệnh tồn dư tối thiểu được theo dõi bằng phương pháp dòng chảy đa tham số trong 21 bệnh nhân. Loại bỏ tế bào CD79/CD5/CD19/CD23 trong tủy xương đạt được tại 68% và 94% bệnh nhân vào ngày 100 và ngày 360, tương ứng.

Kết luận: Theo kết quả này, cấy ghép dị chủng với RIC có thể khắc phục tiên lượng bất lợi của bệnh nhân với CLL không được chuyển đổi cũng như những người có 11q− hoặc 17p−.

#Cấy ghép dị chủng #Điều kiện cường độ giảm #Bệnh bạch cầu lympho mãn tính #Gen biến đổi chuỗi nặng kháng thể không được chuyển đổi #Bất thường nhiễm sắc thể
Phân tích đột biến vùng kinase Bcr-Abl ở bệnh nhân ung thư bạch cầu mãn tính hạt người Hàn Quốc: kết quả lâm sàng kém của đột biến P-loop và T315I phụ thuộc vào giai đoạn bệnh Dịch bởi AI
Hematological Oncology - Tập 27 Số 4 - Trang 190-197 - 2009
Tóm tắt

Mặc dù có phản ứng lâu dài với imatinib trong ung thư bạch cầu mãn tính (CML), nhưng các đột biến trong miền kinase Bcr-Abl (KD) được biết đến là nguyên nhân gây ra sự kháng imatinib và kết quả lâm sàng kém. Chúng tôi đã tiến hành phân tích các đột biến KD Bcr-Abl ở 137 bệnh nhân CML người Hàn Quốc có kháng thuốc imatinib (n = 111) hoặc không dung nạp (n = 26) bằng phương pháp phản ứng chuỗi polymerase (PCR) đặc hiệu cho allele và giải trình tự trực tiếp. Bảy mươi (51%) bệnh nhân mang 81 đột biến thuộc 20 loại khác nhau với tỷ lệ ngày càng gia tăng ở giai đoạn tiến triển. Chín (13%) bệnh nhân có nhiều đột biến. Không phát hiện đột biến ở bệnh nhân không dung nạp. Đột biến T315I là đột biến phổ biến nhất và P-loop là vùng có tỷ lệ đột biến cao nhất trong KD Bcr-Abl. Những bệnh nhân mang đột biến P-loop, T315I hoặc nhiều đột biến có tỷ lệ sống sót toàn bộ và thời gian sống không tiến triển kém so với những bệnh nhân mang các đột biến khác. Phân tích sống sót theo giai đoạn bệnh khi phát hiện đột biến và loại đột biến cho thấy mối tương quan giữa đột biến P-loop hoặc T315I và tỷ lệ sống sót toàn bộ kém trong giai đoạn bùng phát, nhưng không ở giai đoạn tăng tốc (AP) hoặc giai đoạn mãn tính (CP), cho thấy kết quả lâm sàng kém của các đột biến cụ thể phụ thuộc vào giai đoạn bệnh. Các bệnh nhân CML với kháng thuốc imatinib cho thấy tỷ lệ (63%) cao về các đột biến trong KD Bcr-Abl, do đó, các bệnh nhân CML không phản ứng với imatinib nên được lựa chọn làm ứng viên cho việc sàng lọc đột biến như là một phương pháp theo dõi phân tử. Bản quyền © 2009 John Wiley & Sons, Ltd.

#ung thư bạch cầu mãn tính #kháng imatinib #đột biến Bcr-Abl #phân tích di truyền #sinh học phân tử
Beobachtungen zur Organentwicklung bei erythrozytenfreien Amphibienlarven
Archiv für Entwicklungsmechanik der Organismen - Tập 124 Số 3-4 - Trang 707-746 - 1931
Nghiên cứu liên kết toàn bộ bộ gen xác định CDH13 là một gen dễ bị mắc bệnh bạch biến gây ra bởi rhododendrol Dịch bởi AI
Pigment Cell and Melanoma Research - Tập 33 Số 6 - Trang 826-833 - 2020
Tóm tắt

RS‐4‐(4‐hydroxyphenyl)‐2‐butanol dạng racemic (rhododendrol; tên thương mại: Rhododenol [RD]), được sử dụng trong mỹ phẩm làm trắng da, đã gây bất ngờ ở Nhật Bản khi báo cáo gây ra bạch biến hoặc bệnh bạch tạng gọi là bạch biến do rhododendrol (RIL) sau khi sử dụng nhiều lần. Theo hiểu biết của chúng tôi, chưa có nghiên cứu nào điều tra cơ chế gây bệnh bạch biến do hóa chất trên quy mô toàn bộ bộ gen. Tại đây, chúng tôi thực hiện một nghiên cứu liên kết toàn bộ bộ gen (GWAS) trên 147 trường hợp và 112 đối chứng. CDH13, mã hóa một protein neo glycosylphosphatidylinositol gọi là T-cadherin (T-cad), được xác định là gen có khả năng cảm thụ mạnh nhất với RIL. Sự nhạy cảm với RD đã tăng đáng kể khi giảm biểu hiện T-cad trong các tế bào sắc tố người bình thường khi nuôi cấy. Hơn nữa, chúng tôi đã xác nhận sự tăng cường sản xuất tyrosinase và sự suy giảm của những phân tử chống tự hủy (BCL-2 và BCL-XL), gợi ý rằng T-cad liên quan đến RD thông qua điều tiết đường dẫn tyrosinase hoặc con đường tự hủy. Cuối cùng, tính nhạy cảm với ête monobenzyl của hydroquinone cũng có xu hướng tăng khi giảm biểu hiện T-cad, gợi ý rằng T-cad có thể là một gen cảm thụ với RIL và các dạng bạch biến do hóa chất khác. Đây là GWAS đầu tiên đối với bạch biến do hóa chất, và có thể là một mô hình hữu ích để nghiên cứu các khía cạnh di truyền của bệnh này.

#GWAS #RIL #CDH13 #bạch biến #rhododendrol #tyrosinase #hóa cảm #T-cadherin #tự hủy
Biến đổi gen ở bệnh nhân trưởng thành người Thái bị bệnh bạch cầu myeloid cấp tính và hội chứng tiền tủy—tăng bạch cầu phát hiện bằng kỹ thuật giải trình tự thế hệ tiếp theo Dịch bởi AI
Annals of Hematology - Tập 100 Số 8 - Trang 1983-1993 - 2021
Tóm tắt

Nhiều biến đổi phân tử ảnh hưởng đến tiên lượng của bệnh nhân bị bệnh bạch cầu myeloid cấp tính (AML) và hội chứng tiền tủy (MDS) có tăng bạch cầu (EB). Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ mắc và tác động lâm sàng của các biến đổi gen phân tử ở bệnh nhân người Thái bị AML và MDS-EB, được phát hiện bằng kỹ thuật giải trình tự thế hệ tiếp theo (NGS). Nghiên cứu quan sát theo kiểu tiến cứu này được thực hiện từ năm 2018 đến 2020 trên những bệnh nhân người Thái mới được chẩn đoán mắc AML hoặc MDS-EB từ 15 tuổi trở lên. NGS được thực hiện bằng cách sử dụng một phương pháp làm giàu mục tiêu dựa trên amplicon tùy chỉnh cho 42 gen thường xuyên bị đột biến trong các u tủy. Kết quả phân tử được tương quan với các đặc điểm nền tảng của bệnh nhân và bệnh cũng như các kết quả điều trị. Bốn mươi chín bệnh nhân đã được ghi danh vào nghiên cứu này. Tuổi trung bình là 56 tuổi (khoảng tứ phân vị [IQR], 44–64), với tỷ lệ nữ và nam gần như bằng nhau. Số lượng đột biến trung bình là 3 (IQR, 2–4). Các biến đổi thường gặp nhất là FLT3 nhân đôi chuỗi nội (ITD) (28.6%), DNMT3A (24.5%) và đột biến WT1 (22.4%). FLT3-ITD thường gặp hơn trong nhóm AML de novo so với nhóm MDS/AML thứ phát, trong khi trong nhóm MDS/AML thứ phát, các đột biến ASXL1, ETV6,SRSF2 thường gặp hơn. Bệnh nhân trên 65 tuổi và bệnh nhân có đột biến TP53 có khả năng sống sót toàn bộ kém hơn theo phân tích đa biến. FLT3-ITD là đột biến phổ biến nhất ở những bệnh nhân AML mới được chẩn đoán người Thái. Đột biến TP53 và tuổi cao là các yếu tố bất lợi độc lập cho kết quả sống sót. Cảnh quan di truyền của bệnh nhân AML khác nhau giữa các dân tộc quốc gia.

#bệnh bạch cầu myeloid cấp tính #hội chứng tiền tủy #biến đổi gen #giải trình tự thế hệ tiếp theo #tiên lượng bệnh
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BƯỚC 2 BẰNG OSIMERTINIB BỆNH UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ CÓ ĐỘT BIẾN EGFR TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị bước 2 bằng Osimertinib bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IV có đột biến EGFR. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu có theo dõi dọc được tiến hành trên 41 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IV có đột biến EGFR thất bại sau điều trị EGFR-TKIs thế hệ 1,2 xuất hiện đột biến kháng thuốc T790M được điều trị bằng osimertinib tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2018 đến hết tháng 02/2022, theo dõi đến hết tháng 8/2022. Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ của Osimertinib bước 2 là 61%, tỷ lệ kiểm soát bệnh 85,4%, trung vị thời gian sống bệnh không tiến triển (PFS) 11 tháng, trung vị PFS nhóm người bệnh có đột biến Del 19 là 11 tháng cao hơn so với nhóm đột biến L858 R là 6 tháng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê vơi p<0,05. Các tác dụng không mong muốn thường gặp nhất là tiêu chảy (41,5%), ban mụn (39%), da khô (26,8%), viêm móng (24,4%). Hầu hết đều ở mức độ nhẹ, không có bệnh nhân nào phải giảm liều điều trị. Kết luận: Phác đồ osimertinib có hiệu quả cao và an toàn trong điều trị bước 2 bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IV có đột biến EGFR.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #đột biến EGFR T790M #osimertinib
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ BIẾN CHỨNG VIÊM RUỘT THỪA TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi điều trị biến chứng viêm ruột thừa tại Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả hồi cứu 82 trường hợp được phẫu  thuật nội soi để  điều trị các biến chứng viêm ruột thừa trong 3 năm tại Khoa Ngoại tổng hợp Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Biến chứng viêm ruột thừa gặp ở cả nam và nữ, tỉ lệ nam/ nữ là 1,4/1. Vị trí thủng ở thân ruột thừa hay gặp nhất (68,3%). Trong phẫu thuật cắt ruột thừa, kẹp gốc ruột thừa bằng hemolock là chủ yếu (90,2%), thời gian mổ trung bình là 65,1±  15,2 phút, thời gian nằm viện trung bình là 5,68 ± 1,2 ngày. Không có tai biến trong mổ, không có tử vong. Tỉ lệ biến chứng là 7,3%. Kết quả tốt là 92,7%, trung bình là 7,3%, xấu 0%. Kết luận: Phẫu thuật nội soi điều trị biến chứng viêm ruột thừa là phẫu thuật ít xâm hại, an toàn và hiệu quả
#Viêm phúc mạc ruột thừa #áp xe ruột thừa #phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa #phẫu thuật nội soi ổ bụng
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ VIÊM TỤY CẤP DO TĂNG TRIGLYCERIDEMÁU BẰNG BIỆN PHÁP THAY THẾ HUYẾT TƯƠNG VỚI DUNG DỊCH ALBUMIN 5% TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 1 - 2022
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả biện pháp thay thế huyết tương với dung dịch albumin 5% trên bệnh nhân viêm tụy cấp do tăng triglyceride. Nghiên cứu can thiệp so sánh trước sau, không nhóm đối chứng đánh giá sự thay đổi của các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng trên 37 bệnh nhân trước và sau những lần can thiệp từ tháng 08/2021 đến tháng 07/2022. Kết quả: Chỉ số triglyceride giảm từ 113,1 ± 200,8 mmol/l khi nhập viện xuống 13,76 ± 11,64 mmol/l sau can thiệp. Các triệu chứng cơ năng như: đau bụng, buồn nôn, nôn, bí trung đại tiện, bụng chướng và các triệu chứng thực thể gồm: điểm sườn lưng, phản ứng thành bụng, cổ chướng, cảm ứng phúc mạc giảm sau điều trị. Tỷ lệ bệnh nhân có điểm APACHE II ≥ 8 điểm giảm từ 27,03% khi nhập viện xuống 17,14% sau PEX lần 2 (p<0,05) và thang điểm SOFA ≥ 2 điểm giảm từ 64,9% xuống 35,1% sau can thiệp (p<0,05). Từ kết quả này, nghiên cứu chỉ ra biện pháp thay thế huyết tương với dung dịch albumin 5% có hiệu quả điều trị trên bệnh nhân viêm tụy cấp do tăng triglyceride
#Viêm tụy cấp #thay thế huyết tương #albumin 5% #tăng triglyceride
KHẢO SÁT BIẾN THỂ NUDT15 VÀ TPMT TRÊN BỆNH NHÂN BẠCH CẦU CẤP DÒNG LYMPHO TRẺ EM ĐIỀU TRỊ DUY TRÌ TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU - HUYẾT HỌC
Đặt vấn đề: 6-mercaptopuine (6-MP) đóng vai trò quan trọng trong điều trị của bệnh lý bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) trẻ em. Biến thể của gen NUDT15 và TPMT được cho là có liên quan đến việc tăng độc tính khi sử dụng thuốc 6-MP. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát biến thể NUDT15 và TPMT, cũng như ảnh hưởng của các biến thể này tới điều trị thuốc 6-MP ở quần thể dân số bệnh nhi BCCDL Việt Nam. Đối tượng và phương pháp: Sử dụng kỹ thuật giải trình từ Sanger để phát hiện các biến thể NUDT15 và TPMT trên 70 bệnh nhi BCCDL. Trong giai đoạn điều trị duy trì, mức độ giảm bạch cầu hạt (BCH) và liều thuốc 6-MP sử dụng được ghi nhận lại. Kết quả: 23/70 (32,9%) trường hợp ghi nhận biến thể NUDT15. Ba biến thể đã được xác định ở các nghiên cứu khác là NUDT15 *2 (p.V18_V19insGV và p.R139C), *3 (p.R139C), và *6 (p.V18_V19insGV); bên cạnh đó, một biến thể mới được chúng tôi ghi nhận NUDT15 R11Q. Tỷ lệ NUDT15 wild-type, biến thể dị hợp tử, và biến thể đồng hợp tử lần lượt là 67,1%, 30,1%, và 2,8%. Hai biến thể dị hợp tử của gen TPMT được ghi nhận là TMPT *3C và *6, chiếm 2,8%. Bệnh nhân có hoạt độ NUDT15 giảm ở mức trung bình và thấp phải sử dụng liều thuốc 6-MP dung nạplà 55,2 và 37,2 so với 69,5mg/m2/ngày của nhóm bệnh nhân có hoạt độ NUDT15 bình thường (p=0,0001). Cũng tương tự vậy, liều trung bình thuốc 6-MP được sử dụng ở nhóm có hoạt độ NUDT15 thấp cũng phải giảm đáng kể tương đương 49,6% của liều thuốc chuẩn so với 73,6% và 92,7% ở nhóm hoạt độ trung bình và hoạt độ bình thường. Kết luận: Với kết quả trên, nhóm nghiên cứu khuyến nghị cần có sự điều chỉnh liều thuốc 6-MP dựa trên kiểu biến thể NUDT15 được ghinhận ở nhóm dân số bệnh nhân BCCDL trẻ em ở Việt Nam.
#Bạch cầu cấp dòng lympho; NUDT15; TPMT; 6-mercaptopurine
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN BẠCH BIẾN TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Sinh lý học Việt Nam - Tập 27 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân bạch biến tại Bệnh viên Da liễu Trung ương. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 11 bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh bạch biến tại Bệnh viện Da liễu trung ương từ tháng 8/2022 đến tháng 6/2023. Kết quả và kết luận: Tỉ lệ bệnh nhân nghiên cứu nữ/nam là 1,27. Tuổi khởi phát bệnh trung bình là 27,1 ± 15,8 tuổi. Thời gian mắc bệnh trung bình là 67,3 ± 92,4 tháng. Vị trí tổn thương chiếm tỉ lệ cao nhất ở mặt (46,8%), sau đó đến cổ và thân mình cùng chiếm 35,1%. Tỉ lệ bệnh nhân có tổn thương tại vùng ngực, sinh dục cùng chiếm 2,7%. Hầu hết bệnh nhân có mức độ hoạt động bệnh nhẹ và vừa. Mức độ bệnh theo tháng điểm VIDA chủ yếu là +4 (27,9%) và +3 (24,3%). Tỉ lệ bệnh nhân có bệnh ổn định từ 1 năm trở lên (VIDA 0) là 9,0% và tỉ lệ bệnh nhân có bệnh ổn định và thương tổn da tái tạo lại sắc tố được ≥ 1 năm (VIDA -1) là 5,4%.
#Bạch biến #Bệnh viện da liễu Trung Ương
Tổng số: 133   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10